Wednesday, November 30, 2011

as ... as ...

as soon as possible - càng sớm càng tốt.
as cool as a cucumber – tỉnh như không.
as easy as ABC - dễ như bỡn.
Ừ thì dễ thật, những cách nói (so sánh) như trên với chúng ta gần như đã trở thành phản xạ. Vậy thì động não một chút tuần này nhé:
He is as voluble as his brother is curt.
Bạn thích chuyển câu này sang tiếng Việt như thế nào? :’)

Friday, November 25, 2011

Let's talk about flowers - Phiếm chuyện cỏ hoa


Hôm rồi cô bạn email than thở chuyện làm vườn chuẩn bị chống chọi với mùa đông ở xứ lạnh. Bạn phải hì hụi nhổ rễ của khóm thược dược lên, xịt cho hết đất cát rồi đem cất vào nhà kính chờ đến tháng Ba năm sau sẽ đem ra cấy lại. Nhờ vậy tôi mới biết cây thược dược có rễ to bụ bẫm như củ khoai mì, và “tái sử dụng” dễ dàng. Vì Tết Việt Nam ít nhà nào thiếu hai chậu thược dược bày lấy thảo, nhưng hết Tết thì thược dược cũng xuội lơ. Không rõ do giống khác hay tại người bán cắt gốc thược dược đi rồi?
Tiếng Anh có hai từ giông giống nhau tả cảnh hoa nở rộ: bloom và blossom mà trước đây tôi cứ hay dùng lộn tùng phèo. Thật ra bloom dùng cho các loại hoa trồng để… làm hoa. Thoạt nghe buồn cười nhưng hoa hồng, hoa lys, thược dược, v.v. và v.v. trồng để người ta mua về bày trong nhà hay đem tặng nhau đấy thôi. Còn blossom chỉ hoa của những cây ăn trái và những dạng hoa mọc thành bụi, như hoa anh đào – cherry blossom chắc ít ai không biết, những bông hoa “vô tình”, hoa sẽ sớm tàn nếu bị tách khỏi cành.
How I loved looking at my grandmother’s star-apple tree when it was in blossom – Tôi vẫn ưa lắm ngắm cây vú sữa của ngoại lúc nó ra hoa đầy cành.
She had her wedding on a summer day when the carnations were in full bloom in the garden – Cô tổ chức lễ cưới vào một ngày mùa hè, lúc những bông cẩm chướng nở đầy vườn nhà. 

Tuesday, November 22, 2011

Ích kỉ

Cuối tuần rồi vừa loăng quăng trong bếp nấu ăn vừa nghe đĩa Sale El Sol của Shakira. Hết những giai điệu quen thuộc của Objection, Underneath Your Clothes, Whenever Wherever, tự nhiên nghe được mấy câu này:
Use your eyes. Only to look at me.
Use your mouth. Only to kiss my lips
You can laugh. Only if you laugh with me.
You can cry. Only if you cry for me.
Chà, cô gái này đặt ra nhiều quy định (Rules – tên bài hát) cho người yêu quá. Mà ngay lập tức những câu đầu tiên trong bài thơ Ghen của Nguyễn Bính cứ thế nhịp song song trong đầu tôi:
Cô nhân tình bé của tôi ơi!
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi

Friday, November 18, 2011

How would you like to drink your whiskey?



Cô bạn thời trung học vừa khoe có chai whiskey rất thơm và hỏi tôi có uống ‘sec’ được không, vì bạn phải pha với chút nước cola mới uống được. Tôi bảo bạn, thời “oanh liệt” đã qua, giờ mà uống ‘sec’ chắc sớm thấy sao trời :’)
Tôi đi tìm vài loại cocktail có sử dụng nguyên liệu whiskey. Nhờ vậy mà được biết loại rượu này nếu được chưng cất ở Scotland thì gọi là whisky (không có e), còn ở bất cứ đâu đều là whiskey.
Tôi cũng không biết chữ ‘sec’ mình vẫn dùng để nói cách uống rượu nguyên, không pha, là từ ngôn ngữ nào, chỉ biết rằng từ này trong tiếng Anh chẳng hề xa lạ - neat!
So how would you like to drink your whiskey? Neat or with ice, or with some Coca-Cola? 

Tuesday, November 15, 2011

Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ

Laughter is indeed the best medicine.
Vậy nên cứ tranh thủ cười. Mà cười cũng có muôn vàn kiểu, từ mỉm chi cho tới toét miệng, hay như Đường Lâm lúc nhỏ không nhớ dịp gì mà có lần cười đến không mở nổi mắt một lúc lâu (chắc tại vì mắt hí quá chăng?).
Cười trong tiếng Anh không chỉ có smilelaugh. Dưới đây là một số kiểu nữa giúp bạn thể hiện tình huống tốt hơn. Tôi tạm xếp thứ tự theo “cường độ vận động” của các cơ trên mặt.
o   Smile: mỉm cười. Không ai không biết. Mức độ trung tính, được gia giảm tùy theo trạng từ đi kèm. Ví dụ: smile sheepishly – cười thẹn thùng, smile brightly – cười rạng rỡ.
o   Smirk: cười khinh nhạo, tự mãn. I hate that smirk on his face – Tớ ghét cái kiểu cười khinh khỉnh của nó.
o   Giggle: cười khúc khích.
o   Snigger: cười với ý khinh thường nhưng giấu giếm. Một ví dụ trong từ điển khiến tôi hình dung cảnh trong một bộ phim kinh điển nào đấy, phụ nữ, quý ông giới quý tộc tụ thành nhóm, lấy khăn tay che miệng cười nhạo ai đó chen chân vào những buổi tiệc của họ nhưng khổ thay cách ăn vận không qua được những con mắt “quý tộc”.
o   Chuckle: cười khe khẽ; cười một mình. Tôi nhớ lần đi xem ‘Johny English’ ở rạp, vì giữ ý tứ nên chỉ dám cười trong yên lặng (laughed quietly/chuckled) trong khi anh Tây ngồi cạnh cười thật sảng khoái (laughed heartily), thỉnh thoảng còn “Trời ơi! Trời ơi!” nghe mà ghen tị.
o   Grin: cười toét miệng (cười nhăn nhở cũng là hắn).
o   Gurgle: cái này thì mình không bắt chước được rồi, vì nó là tiếng cười ẹ ẹ ẹ nắc nẻ của em bé.
o   Laugh: ai cũng biết rồi.
Giờ thì bạn đang cười nụ cười nào? :’)

Wednesday, November 9, 2011

Kiss me!?

Hà Nội mùa thu này thời tiết bất thường nên suốt tuần ở chơi tôi chỉ được cảm cái lạnh se se, âm thầm như người Hà Nội vẫn mô tả được đúng hai hôm. May mà hoa sữa vẫn nồng nàn nhiều góc phố, và đâu đó những ngách nhỏ vẫn nguyên mùi âm ẩm của tường cũ hít vào mình hơi nước nóng từ ấm nước chè xanh hết năm này qua năm khác…
Và những chị bán hàng rong từ ven Hà Nội lên vẫn là hình ảnh quen thuộc trên những con phố cổ. Vốn tiếng Anh ít ỏi của các chị khiến tôi không khỏi tủm tỉm cười mỗi khi được “mục kích” cảnh mời khách. Tôi nhớ nhất một chị cứ chạy theo các anh khách Tây, gọi:
- Kiss me, kiss me!
Ý chị là ‘Excuse me!’ đấy. Chị ơi, sai một ly đi một dặm rồi! :‘)