Có hai điểm khá thú vị khi chuyển ngữ: một là bạn đừng ngại nếu dùng một từ tiếng Việt nghe dường như cách xa cả mấy đời với nghĩa của từ gốc, vấn đề là nghĩa của cả câu, hoặc cả bài có được chuyển tải trọn vẹn hay không; và hai là nghĩa bóng của một từ tiếng Anh không phải bao giờ cũng gần gũi với người Việt mình (dù để trong ngoặc kép).
Wednesday, June 29, 2011
Technically...
Cũng là chuyện tin trên báo chí. Cách đây ít lâu chính quyền Mỹ đứng trước nguy cơ tạm ngưng hoạt động – shut down technically - nếu không thông qua được vấn đề ngân quỹ. Một tờ báo ngày của mình lên tin, viết “Nhà Trắng đóng cửa “kĩ thuật””, một tờ báo khác đề “chính thức đóng cửa”. Thật ra từ technically ở đây không liên quan gì đến chuyện kĩ thuật – nghĩa đen thui lui, mà đơn giản là đóng cửa thực sự, chính xác ngưng hoạt động. Đây là một nghĩa khác của từ technically ngoài nghĩa liên quan về mặt kĩ thuật, như trong cách nói: “Technically a criminal, but he felt he was just a victim ” – Rõ ràng đã phạm tội, nhưng hắn thấy mình chỉ là một nạn nhân”. Vì vậy phần biên tập tin của tờ báo thứ hai tự nhiên hơn. Có lẽ tờ thứ nhất để “kĩ thuật” trong ngoặc kép với hàm ý nghĩa bóng, nhưng tôi vẫn thấy tiếng Việt mình khó liên hệ nghĩa bóng của từ này, vì vậy mà mẩu tin thành ra có phần khó hiểu.
Monday, June 27, 2011
Copy
Tiếng Việt mình vốn vay mượn cũng kha khá tiếng Hán, tiếng Pháp, và cả tiếng Anh. Chuyện vay mượn này xảy ra ở hầu hết các ngôn ngữ chứ không riêng gì tiếng Việt, làm cho vốn từ vựng phong phú hơn, thú vị hơn. Nhưng nó còn là con dao hai lưỡi (may mà cái lưỡi thứ hai ít bén hơn), dễ khiến ta bám quá chặt vào một nghĩa nhất định của từ được vay mượn. Copy là một ví dụ điển hình (không điển hình sao được khi từ này còn được đọc trại ra thành cọp dê!). Khổ nỗi, copy – danh từ, trong tiếng Anh không chỉ có nghĩa bản sao (sao chép theo một bản gốc), mà còn có nghĩa bản (các bản in/phát hành của sách, báo, băng đĩa, v.v…). Tôi nhớ có lần đọc trên báo tin về một cuốn sách ảnh hiếm có được bán với giá kỉ lục ở nhà Sotheby’s, trong đó mô tả tình trạng của cuốn sách và gọi đó là một “bản sao” làm tôi thắc mắc tự hỏi làm thế nào một bản sao lại có cái vinh dự được đem bán đấu giá ở nhà Sotheby’s, và đạt một giá cao kỉ lục. Tôi hi vọng người biên tập bản tin này từ các nguồn nước ngoài không hiểu sai nghĩa của từ copy mà chỉ dùng nhầm từ tiếng Việt. Nếu nói là bản in, thay vì bản sao, người đọc sẽ không phải thắc mắc như tôi.
Tôi có hai ví dụ cho bạn đây:
1. He is a perfect copy of his father - Thằng bé giống cha như nột (một bản sao hoàn hảo của cha)
2. I have been scouting for The Wind in the Willows but still couldn’t find it. Oh? I’ve got a copy I can lend you – Tớ tìm mãi cuốn Gió Qua Rặng Liễu mà không được. Ồ thế à? Tớ có một cuốn đây, để tớ cho cậu mượn. (từ copy ở đây không có nghĩa là bản phô-tô của cuốn sách, trừ phi người này nói: I’ve got a photographic copy if you don’t mind).
Friday, June 24, 2011
Every time you go away
Hình: www.en.wikipedia.org
You take a piece of me with you…
Nhân nói chuyện những kẻ đang yêu trong bài viết trước, tôi nhớ lại hai câu này trong bài tình ca bất hủ “Every time you go away” do Paul Young trình bày đã nhiều năm về trước. Thầy dạy môn dịch Anh-Việt của tôi thời đại học, một người gầy lẳng khẳng dáng phong trần vẫn ngồi ở cái quán cóc trước cổng trường, cắm mặt xuống một tờ báo hay giáo trình gì đấy, rất tâm đắc với một phiên bản tiếng Việt (vô tình) của hai câu ấy:
Em đi một nửa hồn tôi mất
(Một nửa hồn kia hóa đợi chờ)
Tôi vẫn nhớ hình ảnh thầy lúc vừa ngẩng mặt lên khỏi tờ báo/giáo trình, khuôn mặt đỏ hồng lên như nắng sớm, tay hất mớ tóc xòa rủ trước mặt (ắt phải khiến bao cô sinh viên “hóa đợi chờ”), cười chào chúng tôi. Phải chăng những người yêu ngôn ngữ cũng giống như nhà văn, nhà thơ, luôn “được” tiếng là ở trên mây, có một tâm hồn cực kỳ nhạy cảm? mà nhờ vậy những kẻ chập chững vào con đường chuyên sâu như chúng tôi mới có thể cảm nhận được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, dù ra trường rồi có tiếp tục con đường này hay không lại là một câu chuyện khác.
Tuesday, June 21, 2011
When in love...
Hình: GAOB
... người ta mặt mày hớn hở, thậm chí trông cứ như kẻ khùng, chẳng giấu ai được. Bạn thì sao?
Do you wear your heart on your sleeve?
Saturday, June 18, 2011
Yesterday, This morning, Tomorrow, etc.
Tôi có nói học ngoại ngữ là sự quan sát, bắt chước, không lý giải được theo kiểu toán học 1+1=2, nhưng vẫn hay thắc mắc tại sao người Việt mình hay nói thời gian trước. Kiểu như Hôm qua tớ tìm được đôi giày kiếm lâu lắm rồi; hay Hồi còn bé mẹ vẫn hay đưa tớ đi chơi sở thú. Thôi thì việc này để dành lại cho các nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Chỉ biết rằng tiếng Anh vốn ngược lại, từ chỉ thời gian, nếu không với ý định nhấn mạnh, vẫn khiêm tốn nằm ở vị trí cuối câu – I found my dream shoes yesterday; Mom would take me to the zoo when I was still a little girl.
À không, tôi không nói bạn “khoe” như thế này là sai:
This morning I had a big portion of sticky rice!
nhưng đó là bạn đem cách nghĩ của tiếng Việt vào trong tiếng Anh rồi. Tập chỉnh thói quen lại một chút bạn rồi sẽ có thể nói một cách rất tự nhiên:
I had a big portion of sticky rice this morning!
nếu ý bạn muốn khoe đã ăn cả gói xôi bự sáng nay chứ không phải nhấn mạnh việc ăn cả gói xôi bự là vào sáng nay, không phải sáng nào khác.
Thursday, June 16, 2011
Embarassing moments
Những lúc như thế người Việt mình nói thế nào nhỉ? Chỉ muốn độn thổ. Còn “người Tây”? I just wanted the ground to swallow me.
Tuesday, June 14, 2011
... a woman scorned
Vừa rồi nhắc đến chuyện ‘ladies’, vô tình đọc lại câu chuyện về Cleopatra, tôi rất thích câu này:
Hell hath no fury like a woman scorned.
nói về chiến thắng của nàng Octovia trước người chồng cũ bội bạc Antony. Quả là đàn bà dễ có mấy tay! Chớ có dại dột chọc giận họ.
Câu này được đơn giản hóa từ hai câu trong một tác phẩm cổ (thế kỷ 17-18) của nhà thơ và soạn kịch người Anh William Congreve. Nếu bạn thích trích dẫn văn học (như kiểu mình vẫn trích những câu trong truyện Kiều) thì thêm câu này vào bộ nhớ nhé.
Monday, June 13, 2011
Excuse us!
Tôi không có ý định “o bế” các anh đàn ông phương Tây nhưng không thể phủ nhận một sự thật: họ xứng đáng với từ ‘gentlemen’. Phải đấy, ‘Ladies first!’. Tôi vẫn nhớ một lần đứng trong thang máy cùng một người đàn ông Âu/Mỹ đứng tuổi và nhiều người khác. Khi thang máy mở cửa ở lầu cả tôi và ông cùng đến, những vị khách đứng phía trước vẫn không nhúc nhích mở lối. Ông tế nhị lên tiếng:
- Excuse us!
rồi hơi bước sang một bên để tôi ra trước. Tôi cảm kích ông vì hai lẽ:
1. Tôi được làm ‘lady’ :’)
2. Tôi chưa từng nghĩ có thể nói ‘Excuse us’. Tôi đã quen ‘Excuse me’ từ thời cấp 2 và một cách máy móc chưa bao giờ xem nó như hai từ riêng biệt để có thể thay thế trong từng trường hợp. Tai hại!
Saturday, June 11, 2011
Con, Cái, ...
Tiếng Việt sao mà phong phú, đến nỗi làm “hoa mắt” bạn bè nước ngoài muốn học tiếng ngay từ những buổi đầu bỡ ngỡ. Vậy nên đừng cười làm quê các bạn ấy nếu nghe bạn nói “con búa”. Này nhé:
- Con thuyền / cái thuyền: Đúng
- Con dao / cái dao: Đúng
- Con suốt / cái suốt: Đúng
Vậy mà
- Con kéo: Sai / Cái kéo: Đúng
- Con ốc: Đúng / Cái ốc: Sai
- Con đinh: Sai / Cái đinh: Đúng
- Con búa: Sai / Cái búa: Đúng
Tôi còn nhớ thầy dạy tiếng Anh có lần nói: “Toán, lý thì cứ hỏi vì sao, chứ ngôn ngữ làm sao giải thích được, thấy người ta dùng thế nào thì mình ráng mà nhớ, mà dùng theo vậy thôi”. Mà thật vậy, bạn xem nhé:
- a strand of hair: sợi tóc
- a clove of garlic: nhánh tỏi
- a grain of rice: hạt gạo
- a stick of furniture: đây là cách nói xuề xòa, thường ở dạng phủ định, nhất là khi than căn nhà trống hoác không có lấy một món đồ gì – There wasn’t a stick of furniture when we moved in. Còn thông thường người ta nói a piece of furniture. Piece cũng được dùng cho luggage , vốn dễ bị nhầm là danh từ đếm được (I have two luggages to check in.)
Chúc bạn nhớ được ngày càng nhiều những từ như thế này.
Friday, June 10, 2011
To begin with, it's all about 'feelings'
Tôi không nhớ chắc có phải cái anh chàng Joe hóm hỉnh nói tiếng Việt như người Việt ta không nhưng có lần trong một cuộc phỏng vấn trên tivi, khi được hỏi từ tiếng Việt nào thích nhất, một anh nước ngoài đã trả lời ngay không một giây suy nghĩ: “Tôi tâm đắc nhất từ thấm thía”.
Tôi giật mình. Vậy là chính tôi còn không có cho mình một từ tiếng Việt tâm đắc, đừng nói chi đến tiếng Anh. Tôi vỡ ra rằng anh chàng này giỏi tiếng ta vì anh “cảm” được nó. Cũng như một người ca sĩ nếu không cảm được bài hát sẽ chỉ hát đúng nốt, đúng nhịp mà thôi.
Cho đến bây giờ thì một trong những từ tiếng Việt tôi thích nhất là giận. Có lẽ một phần vì tôi thấy thật khó có thể chuyển tải từ này trong tiếng Anh với một “lương tâm” nhẹ nhõm. Việc gì cũng có nguyên do của nó. Tôi tự giải thích rằng người phương Tây nói chung ít có cái cảm xúc này – giận. Có gì không vui hay buồn lòng họ luôn nói ra. Bởi vậy trong từ điển sử dụng của họ có lẽ không có từ này. Hoặc có nhưng không thật sát nghĩa và họ rất ít phải dụng đến. Cũng như họ quen sống với nhau không hôn nhân nên có hẳn từ partner để chỉ đối tượng sống chung (hy vọng bạn không gọi là đối tác :’)), trong khi đó tôi vẫn chưa tìm được một danh từ tương ứng trong tiếng Việt, chỉ thấy người Việt mình nói chung sống như vợ chồng.
Cảm nhận ngôn ngữ là điều rất quan trọng, mà việc này chỉ có thể nếu nắm được bối cảnh sử dụng cụ thể của từ, ngữ. Hy vọng một ngày nào đó tôi sẽ nghe được một người Anh nói chữ “giận” vẫn luôn làm tôi lúng túng kia.
Subscribe to:
Posts (Atom)